Dr. Martin Luther King.Jr
Lời Giới Thiệu : Đây là bài giảng của Mục sư Martin Luther King tại Nhà thờ Giao ước Mới thuộc hệ phái Baptist, tại thành phố Chicago, bang Illinois, ngày 9 tháng Tư, 1967.
Bài giảng này đã trở thành một trong những bài giảng kinh điển về nghệ thuật hùng biện trong cả hai phương diện : văn nói cũng như văn viết.
Bài này được Mục sư King thuyết giảng đúng một năm trước khi ông bị ám sát chết vì tranh đấu cho dân quyền của dân da đen tại Hoa Kỳ, vào ngày 4 tháng Tư, 1968, lúc mới 39 tuổi.
Bài giảng hôm nay của tôi mang tựa đề: “Ba chiều của một đời sống trọn vẹn.” Các bạn cũng biết ở Hollywood, người ta thường nói, một cuốn phim muốn được trọn vẹn, nó phải có ba chiều. Đúng, buổi sáng hôm nay tôi muốn thưa với các bạn là nếu ta muốn cho đời sống chúng ta được trọn vẹn, nó cũng phải có ba chiều.
Rất nhiều thế kỷ trước đây có một người tên John, bị nhốt trong một ngục thất trên một hòn đảo quạnh quẽ mang tên Patmos. Tôi cũng đã từng bị nhốt tù khá lâu để đủ hiểu được đi tù đơn độc đến chừng nào. Và khi ta bị giam hãm trong tình cảnh như vậy, ta đã bị tước bỏ hết mọi sự tự do, ngoại trừ sự tự do tư tưởng, tự do cầu nguyện, và tự do suy ngẫm. Và khi John bị nhốt trong hòn đảo quạnh quẽ như vậy, ông dõi mắt lên cao và thấy rằng, từ trên trời, có một thiên đàng mới và một trái đất mới đang hạ xuống. Đúng thế, Chương 21 trong sách Khải Huyền mở đầu bằng câu: “Và tôi thấy một trái đất mới và thiên đàng mới, và tôi thấy một ngôi thành thánh, một thành Jerusalem mới, đang từ thiên đàng hạ xuống.”
Và một trong những điều vinh diệu nhất của ngôi thành thánh mà John nhìn thấy là sự trọn vẹn của nó. Nó không cao bên này và thấp bên kia, nhưng trọn vẹn và toàn hảo cả trong ba chiều kích thước. Trong đoạn kinh này, câu thứ 16, John nói rằng: “Chiều dài, chiều rộng và chiều cao của nó đều bằng nhau.” Nói một cách khác, ngôi thành thánh này, ngôi thành mới trong lý tưởng cuả con người không phải là một thực thể bất cân xứng, nhưng toàn vẹn mọi bề. Tôi nghĩ John dùng hình ảnh và ẩn dụ trong chương này và câu này để nói đến một điều gì khác. John nói, rốt cục một cuộc đời đáng sống và là một cuộc đời tốt đẹp nhất là một cuộc đời toàn vẹn mọi bề.
Ta có thể gọi tên cho ba chiều của một đời sống trọn vẹn là chiều dài, chiều rộng, và chiều cao. Chiều dài của đời sống, như ta nói ở đây, là mối quan tâm hướng nội của chúng ta đến phúc lợi của bản thân. Nói cách khác, chính mối quan tâm hướng nội này khiến cho ta tiến tới nhằm đạt được mục tiêu và hoài bão của mình. Chiều rộng của đời sống, như ta nói ở đây, là mối quan tâm hướng ngoại đến phúc lợi của kẻ khác. Và chiều cao của đời sống là hướng lên đến Thượng Đế. Chúng ta phải có đủ ba chiều kích thước này để có được một đời sống trọn vẹn.
Chúng ta hãy suy nghĩ một chút về chiều dài của đời sống. Đây là một kích thước mà ta quan tâm đến việc phát triển sức mạnh nội tại của mình. Ta cũng có thể gọi đây là chiều ích kỷ của đời sống lo cho quyền lợi bản thân. Nhưng cũng có những tư lợi được coi là lành mạnh và hợp lý. Có một mục sư Do thái giáo rất nổi tiếng đã quá cố, tên là Joshua Leibman, cách đây mấy năm vị mục sư này đã viết một cuốn sách trong đó có một chương mang tựa đề “Hãy yêu bản thân mình đúng cách.” Trong chương này, ông nói, đại khái như thế này, là trước khi bạn có thể yêu người khác một cách đầy đủ, bạn phải biết yêu chính mình đúng cách. Các bạn biết không, có rất nhiều người không biết yêu chính họ đâu. Họ chỉ đi qua cuộc đời mang theo những vết thương sâu đậm, ám ảnh mãi trong tâm hồn. Như thế chiều dài của đời sống có nghĩa là ta phải biết yêu chính ta.
Thế nhưng bạn có biết thế nào là yêu chính mình không? Điều đó có nghĩa là ta phải biết chấp nhận mình. Có nhiều người trong đời loay hoay với việc muốn trở thành người khác. Thượng Đế đã cho tất cả chúng ta một điều gì đó đặc biệt. Và ta phải cầu xin Ngài mỗi ngày để giúp cho ta chấp nhận chính mình. Nghĩa là chấp nhận toàn bộ con người của mình. Có rất nhiều người da đen xấu hổ vì màu da của mình. Một người da đen phải đứng lên và nói từ trong tận tâm hồn của mình là: “Tôi là một con người. Tôi có một di sản giàu sang, đáng hãnh diện. Bất kể lịch sử của tôi bị lợi dụng hay đau thương đến đâu, tôi là một người da đen, nhưng là một người da đen đẹp đẽ.” Đó là điều chúng ta phải nói. Chúng ta phải chấp nhận chính mình, và phải cầu xin Chúa hãy giúp ta chấp nhận mình mỗi ngày, hãy giúp ta chấp nhận những dụng cụ của mình.
Tôi nhớ hồi còn học đại học, tôi theo ngành xã hội học. Mọi sinh viên ngành này phải lấy một môn học cần tới môn thống kê. Môn thống kê rắc rối lắm. Bạn phải có đầu óc toán học, phải giỏi hình học, rồi còn phải biết tìm nào là số trung bình cộng (mean), số trung vị (median), rồi số đa vị (mode). Tôi chẳng thể nào quên được mấy cái này. Trong lớp tôi có một người bạn làm mấy thứ này rất giỏi. Anh ta làm bài tập chỉ mất có một tiếng đồng hồ là cùng. Chúng tôi thường làm thí nghiệm chung với nhau, và anh
ta chỉ mất có một tiếng là làm xong bài rồi. Thấy vậy tôi cũng cố bắt chước anh ấy để làm bài tập trong một tiếng thôi. Và càng cố làm bài trong một tiếng thì điểm thi của tôi càng tệ. Cuối cùng tôi rút ra được một kết luận thương đau; tôi bèn ngồi xuống và tự nhủ: “Này, Martin Luther King, Leif Cane thông minh hơn mi nhiều.” Đôi khi ta phải chấp nhận sự thật đó, và tự nhủ: “Cane có thể làm bài trong một giờ, còn mi, mi phải mất từ hai đến ba giờ mới làm xong được.” Tôi đã không chịu chấp nhận mình, không chịu chấp nhận những giới hạn của mình, và những dụng cụ Chúa cho mình.
Thế nhưng trong đời ta thường cố làm như thế. Một chiếc xe Ford mà cố làm như một chiếc Cadillac thì thật là lố bịch, nhưng nếu chiếc xe Ford chịu chấp nhận mình là xe Ford, thì nó có thể làm nhiều điều mà chiếc Cadillac không bao giờ làm được; thí dụ như nó có thể đậu vào một chỗ mà chiếc xe Cadillac dềnh dàng không thể vào được. Trong cuộc đời, một số người trong chúng ta là xe Ford, một số khác là Cadillac. Moses nói trong “Cánh đồng cỏ xanh” rằng: “Lạy Chúa, Con chẳng có gì nhiều lắm, nhưng bản thân con là tất cả những gì con có.” Nguyên tắc tự-chấp nhận là nguyên tắc căn bản của đời sống.
Bây giờ hãy nói đến điều khác của chiều dài của cuộc đời: sau khi đã chấp nhận chính mình và các dụng cụ Chúa ban, ta phải tìm xem ta được kêu gọi làm gì. Và khi đã khám phá ra điều kêu gọi đó, ta phải tiến hành làm việc đó với tất cả sức mạnh và năng lực mình có. Và sau khi đã khám phá ra điều Chúa kêu gọi, sau khi đã khám phá ra công việc của đời mình, ta phải tiến hành thực hiện công việc đó thật tốt, tốt đến nỗi người còn sống, kẻ đã chết và ngay cả những kẻ chưa sinh ra cũng không thể nào làm tốt hơn được nữa. Điều này không có nghĩa là mỗi người trong chúng ta phải làm những điều được gọi là vĩ đại, ghi danh sử sách. Rất ít người trong chúng ta sẽ đạt tới tầm cỡ của thiên tài về nghệ thuật hay khoa học; rất ít người đạt tới một số nghề nào đó. Đa số chúng ta sẽ phải hài lòng với công việc hoặc ở ngoài đồng, hoặc trong công xưởng, hay ở ngoài đường. Nhưng ta phải thấy sự cao quý của lao động.
Khi tôi ở Montgomery, Alabama, tôi thường đến một tiệm bán giày, tiệm này tên là Gordon Shoe. Trong hiệu này có một người giúp việc và hay đánh giày cho tôi. Phải nói xem anh chàng này đánh giày quả thiệt là một kinh nghiệm để đời. Anh ta dùng miếng giẻ đánh giày, và bạn biết không, anh ấy có thể làm cho miếng giẻ này bật ra âm nhạc. Tôi thầm nhủ: “Anh chàng này đạt tới bậc Tiến sĩ trong ngành đánh giày.”
Điều tôi muốn nói với các bạn sáng ngày hôm nay là, nếu như Chúa bắt ta phải làm người quét đường, hãy quét đường hăng say như thể Michaelangelo đang vẽ tranh, hãy quét đường hăng say như thể Hayden và Beethoven đang soạn nhạc, hãy quét đường hăng say như Shakespear đang làm thơ. Hãy quét đường thật tốt, thật sạch đến nỗi tất cả thiên thần trên trời và con người dưới đất phải dừng lại và thốt lên: “Nơi đây có một người quét đường cao quý đã làm công việc của mình quá tuyệt.”
Nếu không thể làm cây thông trên đỉnh đồi
Hãy làm một bụi cây trong thung lũng – Nhưng
hãy làm bụi cây xanh tốt nhất trên sườn núi.
Hãy làm một bụi cây, nếu không thể thành cây cao bóng cả
Nếu không thể thành đại lộ, hãy là một lối mòn.
Nếu không thể thành mặt trời, thì hãy trở thành tinh tú
Thắng hay thua không đo bằng kích thước.
Dù có là ai hay có là gì thì hãy trở thành điều tốt nhất.
Và khi bạn làm điều này, bạn đã làm chủ được chiều dài của cuộc đời.
Sự thúc đẩy ta đi tới cùng để tự hoàn thành sứ mạng là mục đích của đời sống con người. Nhưng đừng dừng lại ở đây. Các bạn biết không, rất nhiều người trong đời chưa từng đi quá chiều dài này. Họ phát triển năng lực nội tại; họ làm công việc của họ rất tốt. Nhưng bạn có biết là họ đang cố sống như thể trên trái đất này chỉ có họ thôi, còn ngoài ra chẳng có ai cả. Họ dùng mọi người như những phương tiện đưa họ đến nơi họ muốn tới. Ngoài bản thân họ ra, họ chẳng yêu ai hết. Và tình yêu duy nhất mà họ dành cho người khác là thứ tình yêu vị lợi. Họ chỉ yêu những ai mà họ có thể lợi dụng được.
Rất nhiều người không đi qua được chiều thứ nhất của cuộc đời. Họ dùng người khác như những nấc thang để leo lên đến mục tiêu và tham vọng của họ. Những người này rồi cũng chẳng làm được gì tốt trong đời đâu. Họ nghĩ rằng họ đang thành công trong đời, nhưng có một định luật bất biến, tối hậu, mà ta gọi là trọng lực trong thế giới vật lý; đó là: điều gì đi lên ắt phải đi xuống. Ta sẽ gặt những gì ta đã gieo. Chúa đã kiến tạo vũ trụ như thể ấy. Và những ai đi qua cuộc đời này mà không quan tâm đến người khác sẽ trở thành đối tượng và nạn nhân của định luật này.
Vì vậy, tôi phải nói thêm là cần phải cộng thêm chiều rộng vào chiều dài. Chiều rộng của đời sống là mối quan tâm hướng ngoại đến phúc lợi của người khác. Và một người chưa thực sự sống nếu chưa vượt được lên trên những hạn chế chật hẹp của lo lắng cá nhân để vươn tới những quan ngại lớn hơn của cả nhân loại.
Một ngày kia Chúa Jesus có kể một chuyện ngụ ngôn. Tôi chắc các bạn nhớ chuyện này. Có một người đến nói chuyện với Chúa về một vài vấn đề làm anh ta rất bối rối. Rồi cuối cùng đi đến câu hỏi: “Ai là người anh em láng giềng của ta?” Người này muốn tranh luận với Chúa Jesus. Câu hỏi này sẽ đi vào khoảng không nếu ta cứ tranh luận theo triết học hay thần học. Nhưng Chúa Jesus đã rút câu hỏi này từ khoảng không vô nghĩa và đặt nó vào ngay khúc quanh nguy hiểm trên con đường từ Jerusalem đến Jericho. Chúa nói về một người bộ hành bị cướp tấn công trên đoạn đường này. Có hai người đi ngang qua thấy nạn nhân nhưng vẫn tiếp tục đi. Cuối cùng, có một người thuộc giống dân khác đi qua, dừng lại và giúp đỡ cho nạn nhân. Câu chuyện ngụ ngôn kết luận rằng người Samari tốt bụng kia là một người cao quý; ông ta là người tốt vì ông quan tâm tới nạn nhân hơn chính thân mình.
Có nhiều suy diễn tại sao thầy tế lễ và người Lê-vi đi ngang qua mà không dừng lại giúp nạn nhân. Nhiều suy diễn lắm. Có suy diễn cho rằng có thể hai người đó đi lễ và vì đã bị trễ, họ không thể nấn ná để giúp người khác. Có những suy diễn khác lại cho rằng hai người này vì là tu sĩ và giáo luật nói rằng khi đi lễ thì không được đụng vào thân xác người khác trong vòng 24 tiếng trước khi thờ phượng. Cũng có một giả thuyết khác cho rằng hai người này đi đến Jericho để thành lập một tổ chức gọi là Hội Cải tiến đường Jericho cho an toàn.Lại có giả thuyết khác cho rằng hai người này bỏ đi luôn vì muốn giải quyết vấn đề tận gốc rễ hơn là lo cho một nạn nhân đơn độc.
Nhưng bạn biết không, khi tôi suy ngẫm về câu chuyện ngụ ngôn này, tôi nghĩ có thể có một lý do khác, khi tôi dùng trí tưởng tượng của tôi. Rất có thể hai người này đi tránh qua bên kia đường vì họ sợ. Đường Jericho là đoạn đường nguy hiểm. Tôi đã đi qua đường này nên tôi biết, và sẽ không bao giờ quên được. Cách đây không lâu, tôi và nhà tôi đi thăm Đất Thánh. Chúng tôi mướn một chiếc xe và lái từ Jerusalem xuống Jericho, một đoạn đường chỉ có 16 dặm. Tôi nói cho bạn nghe, đó là một con đường ngoằn ngoèo, khúc khuỷu, rất thích hợp cho bọn cướp ra tay. Tôi nói với nhà tôi: “Bây giờ anh mới hiểu tại sao Chúa Jesus lại dùng con đường này trong câu chuyện ngụ ngôn.” Khi bạn rời Jerusalem, bạn ở cao độ 2200 bộ (khoảng 670 m) trên mặt nước biển; khi bạn xuống đến Jericho cách đó 16 dặm, bạn ở cao độ 1200 bộ (khoảng 366 m) dưới mặt nước biển. Trong thời của Chúa, con đường này được mệnh danh là Con đường Máu. Thành ra khi tôi nghĩ về thầy tế lễ và người Lê-vi, tôi nghĩ rằng họ sợ.
Họ cũng giống như tôi. Một ngày kia tôi đi thăm bố tôi ở Atlanta. Nhà cụ cách nhà tôi khoảng ba, bốn dặm và muốn đến đó phải đi qua đường Simpson. Khi tôi về nhà vào ban đêm–quý bạn ơi, tôi nói cho quý bạn nghe, đường Simpson là một con đường ngoằn ngoèo, khúc khuỷu. Bên lề đường có một anh chàng đưa tay vẫy tôi dừng lại. Tôi cảm thấy là người này cần giúp đỡ; tôi biết là người này cần giúp đỡ. Nhưng lúc đó tôi không biết được điều này. Và thú thực với các bạn, tôi đi luôn. Tôi không dám mạo hiểm như vậy.
Tôi muốn nói với các bạn sáng ngày hôm nay là câu hỏi đầu tiên thầy tế lễ hỏi cũng là câu đầu tiên tôi hỏi trên đoạn đường Jericho ở Atlanta, tức là đường Simpson. Câu hỏi đầu tiên mà người Lê-vi hỏi là: “Nếu tôi dừng lại để giúp người này, thì việc gì sẽ xảy đến cho tôi?” Nhưng người tốt bụng Samari đi đến và đảo ngược câu hỏi. Không phải là “điều gì sẽ xảy đến cho tôi nếu tôi dừng lại để giúp người này?” mà là “điều gì sẽ xảy đến cho anh ta nếu tôi không dừng lại giúp anh ấy?” Đó mới chính là lý do khiến người Samari trở nên tốt và cao quý. Người này trở nên cao quý vì đã sẵn lòng chịu rủi ro cho nhân loại; người này đã sẵn lòng đặt câu hỏi “điều gì sẽ xảy ra cho người này?” chứ không phải “điều gì sẽ xảy ra cho tôi?”
Đó là điều Chúa cần hôm nay: những người đặt câu hỏi: “Điều gì sẽ xảy ra cho nhân loại nếu tôi không giúp đỡ? Điều gì sẽ xảy ra cho Phong trào Dân Quyền nếu tôi không tham gia? Điều gì sẽ xảy ra cho thành phố của tôi nếu tôi không đi bầu? Điều gì sẽ xảy ra cho người bệnh nếu tôi không đi thăm viếng?” Đó là điều Chúa sẽ phán xét con người trong cuộc phán xét cuối cùng.
Vâng, sẽ có một ngày, nhưng câu hỏi không phải là “ngươi được bao nhiêu phần thưởng trong đời,” hay là “ngươi được bao nhiêu người mến chuộng?” Không phải câu hỏi đó đâu. Câu hỏi trong ngày đó cũng chẳng ăn nhập gì đến việc bạn có bằng Tiến sĩ hay chẳng có sĩ gì hết. Chẳng ăn thua gì tới việc bạn đi học ở trường đại học Morehouse hay bạn đi học ở “trường đại học đời.”[1]
Câu hỏi ngày hôm đó chẳng phải là “ngôi nhà của ngươi đẹp đến chừng nào?” Câu hỏi ngày hôm đó chẳng phải là “ngươi đã tích lũy được bao nhiêu tiền của trong chứng khoán và cổ phiếu?” Câu hỏi ngày hôm đó chẳng phải là “chiếc xe ngươi đi hiệu gì?”
Câu hỏi ngày hôm đó là: “Ngươi đã làm gì cho người khác?”
Bây giờ tôi có thể nghe được có người nói rằng: “Thưa Chúa, con làm nhiều điều trong đời lắm. Con làm công việc trong nghề của con rất tốt; thế giới vinh danh con vì đã làm tốt công việc của mình. Con làm nhiều điều lắm. Con đi học và rất chăm chỉ học hành, thưa Ngài. Con tích lũy được nhiều tiền bạc lắm, thưa Ngài.” Dường như tôi có thể nghe được lời của Chúa Hằng Sống là: “Khi ta đói, ngươi không cho ta ăn. Khi ta đau yếu, ngươi không đến thăm viếng. Khi ta rách rưới, ngươi không cho áo mặc. Khi ta bị giam hãm trong tù, ngươi đã chẳng quan tâm. Hãy tranh xa khỏi mặt ta. Ngươi đã làm gì cho anh em?” Đó chính là chiều rộng của đời sống.
Đi trên chiều rộng của đời sống, chúng ta phải biết rằng không có gì cao quý hơn là làm được một điều gì đó cho tha nhân.
--- To Be Continued ---
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét